ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI
Trải qua 91 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã trải qua 13 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận, đánh dấu những thắng lợi, thành tựu của cách mạng Việt Nam.
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930. Ảnh chụp lại tranh của họa sĩ Phi Hoanh tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia
Dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản ở Việt Nam diễn ra từ ngày 6/1 đến 7/2/1930 tại Hồng Công (Trung Quốc), mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị đã hợp nhất 3 tổ chức Cộng sản ở Việt Nam là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn thành một đảng duy nhất là Đảng Cộng sản Việt Nam, với mục tiêu lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam tiến hành giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hội nghị đã đề ra Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt, trong đó, Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hội nghị cũng ban hành Lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột.
Đại hội I: Khôi phục tổ chức, thống nhất các phong trào đấu tranh cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Thời gian: từ 27 đến 31/3/1935
Địa điểm: Ma Cao (Trung Quốc)
Số lượng đảng viên: 600
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 13
Tổng Bí thư do Đại hội bầu: Đồng chí Lê Hồng Phong
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 13 đồng chí
Nhiệm vụ chính: Củng cố hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước đến nước ngoài.
Đại hội đã thông qua Nghị quyết chính trị của Đảng; các nghị quyết về vận động công nhân, vận động nông dân, vận động thanh niên, phụ nữ, binh lính, về mặt trận phản đế, về đội tự vệ, về các dân tộc ít người...; Điều lệ của Đảng; Điều lệ của các tổ chức quần chúng của Đảng.
Đại hội cử đồng chí Nguyễn Ái Quốc làm đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc tế Cộng sản.
Tháng 7/1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư.
Tháng 3/1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư.
Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh gìn giữ và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ trung ương đến cơ sở. Đây là một điều kiện cơ bản và cần thiết để Đảng bước vào một thời kỳ đấu tranh mới với một đội ngũ cán bộ đã được tôi luyện.
Đại hội II: Đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc diễn văn tại Đại hội lần thứ II của Đảng ở căn cứ địa Tuyên Quang. Ảnh tư liệu.
Thời gian: Từ 11 đến 19/2/1951
Địa điểm: Xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang
Số lượng đảng viên trong cả nước:766.349
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 158
Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Trường Chinh
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 29
Ủy viên Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 7
Ủy viên Nhiệm vụ chính: Đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Đại hội đã tổng kết 21 năm Đảng lãnh đạo cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, 5 năm lãnh đạo chính quyền non trẻ và công cuộc kháng chiến kiến quốc.
Do sự phát triển và yêu cầu của sự nghiệp cách mạng và kháng chiến, Đại hội quyết định xây dựng ở mỗi nước Đông Dương một đảng cộng sản riêng. Ở Việt Nam, Đảng lấy tên là Đảng Lao động Việt Nam.
Đại hội thông qua Điều lệ của Đảng Lao động Việt Nam. Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam.
Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và xây dựng Đảng theo nguyên tắc một Đảng vô sản kiểu mới, lấy tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt căn bản của Đảng; phê bình, tự phê bình là quy luật phát triển của Đảng; phục vụ nhân dân là mục tiêu hoạt động của Đảng. Đại hội đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thực tiễn, đưa cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.
Đại hội III: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, đấu tranh thống nhất nước nhà
Đoàn Chủ tịch Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III Đảng Lao động Việt Nam, ngày 5/9/1960. (Ảnh: baotanglichsu.vn)
Thời gian: Từ 5 đến 10/9/1960
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 500.000
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 525
Chủ tịch Đảng được bầu tại Đại hội: Chủ tịch Hồ Chí Minh
Bí thư thứ nhất được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 47 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 11 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà ở miền Nam.
Đại hội đã tổng kết 30 năm lãnh đạo của Đảng, nêu lên những bài học có ý nghĩa lý luận và thực tiễn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Đại hội xác định nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta. Cách mạng miền Nam có nhiệm vụ giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. 2 nhiệm vụ có mục tiêu chung là thực hiện hoà bình thống nhất Tổ quốc, đều nhằm giải quyết mâu thuẫn chung là mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và tay sai của chúng.
Đại hội quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội IV: Hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hà Nội, tháng 12/1976 (Ảnh: baotanglichsu.vn)
Thời gian: Từ 14 đến 20/12/1976
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 1.550.000
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.008
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 101 uỷ viên chính thức, 32 ủy viên dự khuyết.
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 14 uỷ viên chính thức, 3 ủy viên dự khuyết
Nhiệm vụ chính: Hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển đất nước.
Đại hội tổng kết những bài học lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội xác định nhiệm vụ, phương châm và biện pháp công tác Đảng trong giai đoạn mới, bảo đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm lãnh đạo nhân dân cả nước tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua Điều lệ mới gồm 11 chương và 59 điều, đặt lại chức vụ Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất, quy định nhiệm kỳ của Ban Chấp hành Trung ương là 5 năm.
Ðại hội V: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V họp từ ngày 27 - 31/3/1982 tại Thủ đô Hà Nội. (Ảnh: Báo Nhân dân)
Thời gian: từ 27 đến 31/3/1982
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng Đảng viên trong cả nước: 1.727.000
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.033
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Lê Duẩn
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 116 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Xây dựng chủ nghĩa xã hội trên toàn lãnh thổ Việt Nam.
Đại hội nhận định, đất nước đứng trước những khó khăn lớn về kinh tế và xã hội mà một phần nguyên nhân là do khuyết điểm, sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước về lãnh đạo và quản lý. Do đó, Đảng phải lãnh đạo nhân dân thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội thông qua những nhiệm vụ văn hoá, xã hội; tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng của quần chúng; chính sách đối ngoại; nhiệm vụ nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội VI: Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng họp tại Hà Nội (Ảnh tư liệu)
Thời gian: Từ 15 đến 18/12/1986
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.109.613
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.129
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Văn Linh
Ban Chấp hành Trung ương được bầu tại Đại hội: 124 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới đất nước (khởi xướng đưa đất nước tiến hành công cuộc đổi mới)
Đại hội VI khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần cách mạng và khoa học. Đại hội đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo XHCN, trong đó, phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả ba mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối XHCN.
Nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh: Đảng phải đổi mới về nhiều mặt: đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế; đổi mới tổ chức; đổi mới đội ngũ cán bộ; đổi mới phong cách lãnh đạo và công tác. Nâng cao chất lượng đảng viên và sức mạnh chiến đấu của tổ chức cơ sở, tăng cường đoàn kết nhất trí trong Đảng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách của công tác xây dựng Đảng.
Đại hội VII: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, đưa đất nước tiến lên theo con đường XHCN
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng. Ảnh tư liệu
Thời gian: từ 24 đến 27/6/1991
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.155.022
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.176
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 146 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 13 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới. Đại hội khẳng định: Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có nguyên tắc và có bước đi vững chắc, đó là mệnh lệnh của cuộc sống, là quá trình không thể đảo ngược.
Với nhiệm vụ “Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước đi theo con đường đổi mới”, Đại hội VII lần đầu tiên thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH.
Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đại hội VIII: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Ðảng diễn ra từ ngày 28/6 đến 01/7/1996 tại Hà Nội. (Ảnh: Tư liệu)
Thời gian: từ 28/6 đến 1/7/1996.
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng Đảng viên trong cả nước: 2.130.000
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.198 đại biểu
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Đỗ Mười
Ban Chấp hành Trung ương bầu tại Đại hội: 170 uỷ viên
Bộ Chính trị bầu tại Đại hội: 19 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội khẳng định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế-xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc. Đại hội đã đưa ra các định hướng phát triển các lĩnh vực chủ yếu trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đại hội VIII đánh dấu bước ngoặt chuyển đất nước ta sang thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ tư (khoá VIII, tháng 12/1997) bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đại hội IX: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Ðảng diễn ra từ ngày 19 đến 22/4/2001 tại Hà Nội. (Ảnh: Báo điện tử Nhân dân)
Thời gian: Từ 19-22/4/2001
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 2.479.719
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.168
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nông Đức Mạnh
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 150 uỷ viên
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 15 uỷ viên
Nhiệm vụ chính: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại hội chỉ rõ mô hình tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN.
Đại hội khẳng định phải coi trọng xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Đó là nhiệm vụ then chốt, là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của Đảng ta, là nhân tố bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập khu vực và thế giới, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Đại hội X: Huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng diễn ra từ ngày 18 đến 25/4/2006 tại Hà Nội. (Ảnh: Báo điện tử Nhân dân)
Thời gian: Từ 18 đến 25/4/2006
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 3,1 triệu
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.176
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nông Đức Mạnh
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 160 uỷ viên chính thức, 21 ủy viên dự khuyết
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 14 uỷ viên.
Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển.
Đại hội đánh giá sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử; đồng thời nêu bật năm bài học lớn.
Đại hội quyết định mục tiêu tổng quát 5 năm tới là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội XI: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước
Thời gian: Từ 12 đến 19/1/2011
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 3,6 triệu
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.377
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 175 uỷ viên chính thức, 25 ủy viên dự khuyết.
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 14 uỷ viên.
Nhiệm vụ chính: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Đại hội có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật, đề cao tinh thần tự phê bình nghiêm túc, để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện những thành tựu và yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X.
Đại hội đã thảo luận sôi nổi, dân chủ và nhất trí thông qua các văn kiện rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, phương hướng, nhiệm vụ năm 2011 - 2015 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).
Đại hội XII: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, sớm đưa đất nước cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Thời gian: Từ 20 đến 28/1/2016
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước: 4,5 triệu
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.510
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 180 uỷ viên chính thức, 20 ủy viên dự khuyết.
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 18 uỷ viên.
Nhiệm vụ chính: Đẩy mạnh công cuộc đổi mới; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đại hội đánh giá thành tựu và hạn chế sau 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm tiếp theo, chủ yếu tập trung vào kinh tế, xây dựng Đảng, nâng cao chất lượng tăng trưởng, năng suất lao động, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Đại hội này cũng là lần đầu tiên Đảng thực hiện Đề án Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo. Theo đó công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, thận trọng và thực sự phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tạo được sự thống nhất cao của các đại biểu dự Đại hội.
Đại hội XIII: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”
Thời gian: Từ 25/01 đến 02/02/2021
Địa điểm: Thủ đô Hà Nội
Số lượng đảng viên trong cả nước hơn: 5,1 triệu
Số lượng đại biểu tham dự Đại hội: 1.587
Tổng Bí thư được bầu tại Đại hội: Đồng chí Nguyễn Phú Trọng
Ban Chấp hành Trung ương Đảng được bầu tại Đại hội: 180 uỷ viên chính thức, 20 ủy viên dự khuyết.
Bộ Chính trị được bầu tại Đại hội: 18 uỷ viên.
Đại hội đã đề ra 6 nhiệm vụ trọng tâm, 3 đột phá chiến lược trong nhiệm kỳ
- 6 nhiệm vụ trọng tâm
Một là: Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị toàn diện, trong sạch, vững mạnh. Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Xây dựng tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ. Xây dựng đội ngũ đảng viên và cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Củng cố lòng tin, sự gắn bó của nhân dân với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Hai là: Tập trung kiểm soát đại dịch COVID-19, tiêm chủng đại trà vắc-xin COVID-19 cho cộng đồng; phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập; phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng, các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất, kinh doanh; có chính sách hỗ trợ hiệu quả doanh nghiệp trong nông nghiệp; đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là những thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; huy động, phân bổ, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, tạo động lực để phát triển kinh tế nhanh và bền vững; hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.
Ba là: Giữ vững độc lập, tự chủ, tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế; tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển, đảo, vùng trời; giữ vững môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
Bốn là: Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế; có chính sách cụ thể phát triển văn hoá đồng bào dân tộc thiểu số; thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.
Năm là: Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh; cải cách tư pháp, tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là sự gương mẫu tuân theo pháp luật, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa của cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và tổ chức chính trị - xã hội các cấp, của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc.
Sáu là: Quản lý chặt chẽ, sử dụng hợp lý, hiệu quả đất đai, tài nguyên; bảo vệ, cải thiện môi trường; chủ động, tích cực triển khai các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, thiên tai khắc nghiệt.
- 3 đột phá chiến lược
Thứ nhất: Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, cạnh tranh hiệu quả. Tập trung ưu tiên hoàn thiện đồng bộ, có chất lượng và tổ chức thực hiện tốt hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách, tạo lập môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, lành mạnh, công bằng cho mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo; huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển, nhất là đất đai, tài chính, hợp tác công - tư; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền hợp lý, hiệu quả, đồng thời tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực bằng hệ thống pháp luật.
Thứ hai: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba: Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội; ưu tiên phát triển một số công trình trọng điểm quốc gia về giao thông, thích ứng với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia, từng bước phát triển kinh tế số, xã hội số.
Ban Tuyên giáo Đảng ủy Khối (Sưu tầm)